Thứ Năm, 21 tháng 11, 2013

Oxford thương yêu

tác giả: DƯƠNG THỤY

Part 01: Ngỡ ngàng nhập học

Cô gái Việt Nam vô cùng rụt rè xuất hiện trước cửa văn phòng  giáo sư  Baddley
sau  tiếng  gõ  rất  khẽ.  Anh  chàng  trợ  lý  có  gương  mặt  rất  sáng,  mũi  thanh  và  đôi mắt đặc biệt thông minh niềm nở mời cô vào:  “Tôi tin chắc em là Trần Vũ Thiên Kim - Anh phát âm tên cô một cách vụng vềnhưng hoàn toàn duyên dáng - Em học hệ Cao học phải không? Giáo sư Baddley dặn tôi đưa em lịch học và cuốn giáo trình này”.  Kim vụt trở thành một con người khác, cô vui vẻ và dạn dĩ trò chuyện cùng người trợ lý, đôi mắt sáng long lanh nhìn cuốn giáo trình dày cộp đã được photo sẵn: 
- Thật không ngờ giáo sư quan tâm  đến tôi như thế - Kim siết cuốn giáo trình vào
ngực như thể  đấy là quyển thánh kinh làm người trợ lý bật cười - Tôi phải gửi lại
anh  bao  nhiêu  tiền  photo?  À  mà  anh  tên  gì?  Anh  có  thể  cho  tôi  địa  chỉ  e-mail không? Tôi xin học bổng ở một tổ chức phi chính phủ, họ chỉ cho học bổng trong một năm nhưng vì sang  đây trễ do thủ tục giấy tờ phức tạp, thầy trưởng khoa nói
chắc  tôi  đành  phải  kéo  dài  chuyện  học  trong  hai  năm.  Anh  không  tưởng  tượng
được đâu, tôi khổ sở mấy ngày nay...
- Ồ!  Tôi  tưởng  tượng  được  chứ!  Tôi  là  Fernando  Carvalho  -  Người  trợ  lý  mỉm
cười  -  Tôi  cũng  là  người  nước  ngoài  mà.  Tôi  đến  từ  Bồ  Đào  Nha.  Tôi  đã  hoàn thành chương trình Thạc Sĩ cũng bằng học bổng của chính phủ nước này cách nay vài  năm.  Rồi  giáo  sư  Baddley  nhận  tôi  vào  làm  trợ  lý  chính,  giờ  tôi  đang  trong giai  đoạn  nghiên  cứu  sinh.  Đây  là  danh  thiếp  của  tôi,  em  cần  hỏi  gì  cứ  tự  nhiên nhé.
Dù Kim còn muốn trò chuyện thêm tí nữa nhưng  Fernando  đã lịch sự mỉm cười
tiễn cô ra cửa. Anh nói thêm như vừa chợt nhớ ra: “Em không phải trả lại tôi tiền
photo sách đâu, coi như tôi tặng em một món quà nhỏ  để chúc em can  đảm lên!”.
Kim thật sự cảm động, cô lắp bắp cảm ơn rồi bước giật lùi cho  đến khi cánh cửa
khép hẳn lại và Fernando cùng với nụ cười tươi rói của anh biến mất.
Quả là những phút giây được an ủi sau bao nhiêu sự kiện làm Kim cực kỳ bối rối,
đến nỗi gặp ai cô cũng lặp lại  điệp khúc: “Tôi chỉ có học bổng trong một năm mà
sang  đây  mới  biết  chắc  phải  học  những  hai  năm.  Bạn  không  tưởng  tượng  được
đâu, tôi khổ sở mấy ngày nay...”. Cô thuộc týp người sống cần có người quan tâm
và đã đắm mình trong sự yêu thương của gia đình từ bấy lâu nay đến mức gần như
không trưởng thành nổi. Hôm qua khi trình diện giáo sư trưởng khoa, Kim bị ông
ta phán cho một câu xanh rờn: “Cô sẽ không thể hoàn thành khóa Cao học này chỉ
với  một  năm  ngắn  ngủi.  Thật  ra  điều  này  cũng  có  thể  xẩy  ra  nếu  cô  đến  từ  một nước  nào  đó  ở  Châu  Á  có  nền  giáo  dục  phát  triển  như  Singapore  hay  Malaysia. Đằng này cô lại... Đã vậy còn nhập học trễ nữa chứ!”. Rồi khi Kim há hốc mồm ra một cách ngu xuẩn “Vậy... vậy thầy khuyên em phải làm sao?”, ông ta nhấn mạnh “Chuẩn bị tinh thần và tài chính để nếu phải kéo dài sang hai năm thì cũng không
bị hụt hẩng!”.  Thấy Kim ngơ ngẩn không buồn trả lời, ông trưởng khoa chép miệng: 
- Ở  những  trường  Đại  học  danh  tiếng  trên  thế  giới,  đôi  khi  người  ta  cũng  buộc
phải  cấp  bằng  cho  những  nhân  vật  đến  từ  nước  ngoài  vì  lý  do  ngoại  giao  hay
chính trị. Tuy nhiên tôi không nghĩ cô thích bằng cấp kiểu đó. Cô đã đích thân tìm
học  bổng  sang  đây,  cô  được  trường  chấp  nhận  cho  nhập  học,  nên  tôi  đoán  cô muốn có kiến thức thật sự! Thôi cố gắng xoay sở. Tôi thấy không có vấn đề gì!
Kim định nói “Dĩ nhiên, vì đó đâu phải là vấn đề của thầy!”, nhưng ông đã ra dấu
tiễn cô với nụ cười nhếch môi vừa lạnh lùng vừa giễu cợt.  
Kim  từ  văn  phòng  khoa  Kinh  Tế  trên  phố  Manor  buồn  bã  không  muốn  quay  về khu học xá, cô lang thang vào trung tâm thành phố nơi qui tụ những ngôi trường
trực thuộc  Đại học Oxford. Sang  đây Kim mới ngỡ ngàng nhận ra  Đại học thuộc
loại lâu đời nhất châu Âu này có đến ba mươi chín ngôi trường độc lập khác nhau
gọi  là  “college”.  Mỗi  college  trông  cổ  kính  và  đẹp  kiêu  hãnh  như  những  tòa  lâu đài với những cánh cổng bằng gỗ  được chạm khắc công phu và những ngọn tháp
vươn cao quyền quí. Sinh viên và cả giáo sư chạy xe đạp luồn lách vào những con
đường hẹp hay những con hẻm nhỏ lót  đá di chuyển từ college này sang college
kia. Kim biết rồi mình cũng sẽ được vào trong những ngôi trường cổ kính này dùi
mài kinh sử, cô sẽ không học cố  định ở một nơi mà tùy theo từng môn sẽ  đến các
trường  khác  nhau.  Kim  tưởng  tượng  mình  như  Harry  Potter  buổi  đầu  ngơ  ngác
nhập học ở trường Phù Thủy, ngôi trường cổ kính với những lớp học bé tí, những
cầu thang đá nhỏ hẹp và những hành lang dài vô định. Và quả thật, bộ phim Harry
Potter được quay tại những college ở Oxford. Ở ngoài phố, Kim thấy có rất nhiều
khách du lịch và những  đoàn học sinh  được giáo viên dẫn  đi tham quan  Đại học
Oxford. Hẳn họ muốn  gieo vào lòng những học trò nhỏ niềm hy vọng  được vào
học trong ngôi trường danh tiếng này. Cô thở dài, nghĩ dù mình đã được nhận vào
học nhưng áp lực lớn nhất là phải đi ra với mảnh bằng tốt nghiệp. Sau này về Việt
Nam với cái danh học  ở Oxford mà không chìa ra  được giấy tờ chứng minh chắc
Kim chỉ còn nước bỏ xứ đi luôn.
Buổi  tối  trong  khu  học  xá,  gió  gào  hú  không  ngừng,  mưa  quất  từng  hạt  nặng  nề vào kính như thể muốn tìm đủ mọi cách chui vào phòng. Kim bất an chốc chốc lại
đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài trời  đêm. Ánh  đèn vàng cao áp  đủ cho cô nhìn thấy
cây cỏ oằn mình trong gió rét. Suốt đêm Kim cứ trằn trọc với câu hỏi “Làm sao có
tiền để ở lại Oxford thêm một năm nữa?”. Cô đã đổ bao công sức để xin được học
bổng của một tổ chức phi chính phủ và song song đó phải đáp ứng đủ yêu cầu của
Đại học Oxford mới được nhận vào ngôi trường danh tiếng này. Vậy mà không lẽ
phải quay về Việt Nam khi chưa hoàn thành chương trình. Bao nhiêu cố gắng lại
bỏ phí đi sao? Mộng du học ở Anh đã được Kim ôm ấp hồi còn là học sinh Trung
học. Cô luôn cố gắng trao dồi tiếng Anh từ những ngày đó, rồi trong suốt bốn năm
Đại  học,  cô  vẫn  không  ngừng  truy  tìm  học  bổng  và  duy  trì  điểm  số  luôn  ở  mức xuất sắc. Tốt nghiệp ra trường Kim vẫn chưa có cơ hội nên cô lại tiếp tục xoay xở
tìm nơi cấp học bổng và xin các trường  Đại học chấp nhận. Mãi  đến ba năm sau
khi tốt nghiệp  Đại học, khi  đã có một công việc thú vị trong một công ty uy tín,
Kim  mới  hạnh  phúc  có  được  niềm  vui  biến  giấc  mơ  từ  thời  học  sinh  thành  hiện thực.  Đó là cả một quá trình dài phấn  đấu và kiên nhẫn không ngừng. Nhưng giờ
giấc mơ  đó chỉ mới thực hiện được một phần, quan trọng nhất là phải hoàn thành
khóa học rất nặng bên đây theo đúng thời hạn một năm. 
Gia đình Kim tuy rất quan trọng chuyện học nhưng không đủ khả năng để nuôi cô
trong một năm sinh hoạt  ở Anh, nơi có mức sống thuộc hàng đắt  đỏ nhất thế giới.
Lương  đi  làm  của  Kim  dành  dụm  được  sau  ngày  ra  trường  cũng  chỉ  đủ  cho  cô mua sắm đồ đạc trước khi sang đây. Gần sáng, Kim tìm ra câu trả lời: “Chỉ có một
con  đường: bất cứ  giá nào cũng phải học xong trong một năm như người ta! Cố
gắng  hết  sức  đuổi  kịp  ba  tuần  nhập  học  trễ.  Phải  làm  cho  ông  trưởng  khoa  thấy người Việt Nam cũng học hành  đàng hoàng không kém ai!” rồi mệt nhoài  đi vào
giấc ngủ nhiều mộng mị đến mức ngã lăn xuống nền gạch lạnh như băng. Khu học
xá đã tắt lò sưởi trung tâm để tiết kiệm nhiên liệu.
Oái ăm, buổi học đầu tiên của Kim rơi vào sáng thứ bảy, vào cái ngày mà ai cũng
cuộn tròn trong chăn ngủ vùi lười biếng. Ông giáo sư bận quá nhiều việc nên chỉ
dạy  vào  giờ  này.  Cô  khoác  áo  lạnh  dày  cộp,  ôm  cặp,  xách  dù  mò  mẫm  bước  ra đường. Trời hãy còn tối, không một bóng người dù  đã bảy giờ ba mươi sáng. Các cửa hàng đóng cửa im lìm chìm khuất trong màn  đêm. Kim bước lên xe bus và là
người khách duy nhất trên tuyến  đường chạy vào trường. Môn này cô học  ở một
cơ sở hiện đại nằm gần ga, không nằm trong trung tâm thành phố cổ kính. Khi bus
dừng thả người khách cô đơn xuống trước khuôn viên khoa, mặt trời cũng vừa hé
bức màn dày màu xám ló ra e thẹn. Kim đột nhiên thấy phấn chấn hơn, cô ngước
nhìn cảnh bình minh lên với ánh hồng pha cam  đẹp lạ lùng rồi mạnh dạn lần  đầu
bước chân vào giảng đường Oxford, nơi được biết bao người trẻ ao  ước. Môn này
đã bắt đầu được hai buổi và thu hút khá đông sinh viên nước ngoài. Tụi Ý ăn mặc
diêm dúa, một cặp người Nga tóc hung ngồi  đầu bàn, ba người nói tiếng Tây Ban
Nha, vài đứa sinh viên Anh mặt  đầy tàn nhang  đang ngáp to như trực thăng kêu.
Tất cả  đều có vẻ không hài lòng thậm chí là phẫn nộ vì phải  đi học vào ngày cuối
tuần. 
Đúng tám giờ trợ lý Fernando  đến phát tài liệu và vào lúc Kim hồi hộp nhất, giáo
sư Baddley xuất hiện. Sẽ chẳng bao giờ cô có thể quên giây phút ấn tượng đó, một
người  đàn ông mập mạp, tóc húi cua, mặc chiếc áo len màu xanh thủy thủ có nụ
cười hiền như bụt đang ngồi trên một chiếc xe lăn bằng điện dần dần tiến vào lớp.
Giáo  sư  Baddley  trứ  danh  đây  sao?  Kim  ngỡ  ngàng.  Ông  là  người  khuyết  tật,
chiếc xe của ông phát ra tiếng “rè rè” làm cô bối rối. Xe chạy ngang qua chỗ Kim,
theo phản xạ tự nhiên cô  đứng dậy cúi  đầu chào giáo sư kính cẩn. Hành  động lễ
phép này làm sinh viên trong lớp hơi ngạc nhiên vì bọn chúng vẫn đang vô tư nhai
kẹo cao su. Nhưng giáo sư không lấy  đó làm lạ. Ông gật  đầu chào lại và tiếp tục
lái xe tiến  đến bàn  giáo  viên. Sau vài phút hướng dẫn,  giáo sư  điều khiển xe lui
xuống,  nhường  bục  giảng  lại  cho  một  sinh  viên  người  Tây  Ban  Nha.  Mỗi  người trong lớp phải soạn bài và giảng lại cho các bạn đồng môn. Vai trò của giáo sư chỉhướng dẫn chung và chấm bài tiểu luận.  Cuối  buổi  học  giáo  sư  Baddley  lái  xe  lăn  đến  bên  Kim  cười  đôn  hậu:  “Em  là người  Việt  Nam  phải  không?  Tôi  có  nghe  thầy  trưởng  khoa  nói  về  trường  hợp nhập học trễ của em. Hiếm khi có sinh viên từ Việt Nam. Cố gắng nhé. Cần gì cứđến  văn  phòng  của  tôi,  nếu  tôi  không  có  ở  đó  thì  cứ  nhờ  trợ  lý  Fernando”.  Kim xúc động lí nhí cảm ơn rồi nép người nhường đường cho ông lái xe ra thang máy.  Trời  đang mưa. Lại mưa. Những cơn mưa trứ danh của Anh, mạnh mẽ, dai dẳng, rơi mãi không ngừng. Gió thổi những cơn gió rét quất vào mặt Kim thật thô bạo. Cô quấn khăn vào cổ chặt  đến mức gần nghẹt thở phải ho khan lên. Tụi sinh viên Oxford  thích  đi  xe  đạp  và  khóa  xe  đầy  đường  nhưng  Kim  biết  mình  chỉ  ở  đây không lâu nên chẳng cần mua xe  đạp làm gì. Gặp lúc xe hư còn khổ thêm vì làm sao  tìm  được  những  chỗ  sửa  xe  ngoài  góc  đường  như  bên  Việt  Nam.  Ở  trạm  xe bus chỉ có vài người đứng chờ, miệng nhai nhóp nhép chút gì đó. Bụng Kim cũng cồn cào, cô mở cặp tìm mấy viên kẹo nhai cầm hơi.  Đã một giờ trưa. Lúc xe bus chở  Kim  chạy  ngang  bãi  đậu  xe  cô  thấy  giáo  sư  Baddley  điều  khiển  xe  lăn  của mình chạy đến một chiếc xe hơi rồi loay hoay tìm cách chui vào đó. Thì ra ông tựlái xe đi dạy. Sau buổi học đầu tiên với người thầy dễ mến dù không có khả năng tự  đi trên  đôi chân của mình, Kim thất vọng nhận thấy những giáo sư còn lại tuy lịch sự nhưng khá lạnh lùng và gần như vô cảm với những khó khăn của người khác. Đa phần họđều trông rất sang trọng với những bộ complet cắt may vừa khéo. Khoa Kinh Tế, giáo sư ngoài những giờ lên lớp còn hợp tác làm tư vấn cho các công ty và tham gia  nhiều  dự  án  đầu  tư  với  các  nước  giàu.  Kim  hay  nhòm  ngó  sang  những  khoa “hiền lành” như Nông Nghiệp, Lịch Sử hay Sinh Vật  để ao  ước học với những vịgiáo sư mộc mạc, giản dị và nhiệt tình. Fernando bảo cô  đừng trông  đợi sự tử tế của bất kỳ ai. Cứ cố gắng hết sức rồi thì sẽ có một “quới nhân” phù hộ. Giáo sư Baddley  là  một  người  như  thế.  Fernando  nói  ngay  trong  cộng  đồng  Châu  Âu, những nước giàu cũng hay xem thường những nước kém phát triển hơn. Bồ  Đào Nha là một nước tụt hậu nhiều so với Châu Âu, nên bản thân anh trước kia cũng gặp  khá  nhiều  khó  khăn.  Nhưng  giáo  sư  Baddley  vẫn  đối  xử  với  Fernando  một cách  hoàn  toàn  công  bằng.  Ông  đánh  giá  anh  qua  thái  độ  cần  mẫn,  nghiêm  túc công việc và qua tinh thần cầu tiến của một thanh niên  đến từ một  đất nước còn  nhiều  rào  cản.  Khi  Fernando  kể  lại  với  Kim  điều  này,  anh  hơi  ngượng.  Cô cười, làm bộ trêu nhưng thực lòng thấy tự hào  được anh chia sẻ: “Chà! Em thấy giáo  sư  biết  nhìn  người  ghê!”.  Fernando  hơi  đỏ  mặt,  đôi  mắt  thông  minh  ánh những tia lém lỉnh: “Đến từ những nước nhỏ thì chỉ có một con  đường là nỗ lực để đừng bị người ta xem thường!”
Nhiều  đêm, khi gió không chịu ngủ cứ thang lang luồn lách vào những cành cây
khẳng khiu làm chúng phải kêu lên răng rắc, Kim trằn trọc. Những người trẻ  đến
từ một nước nhỏ xíu gần như không tên tuổi như cô không phải chỉ muốn “đừng
bị người ta xem thường” mà còn làm sao  để  được người ta tôn trọng. Nhưng quả
thật “vươn lên” là điều ai cũng muốn nhưng không phải cứ muốn là được như câu
tục ngữ tự phỉnh mình “Vouloir c’est pouvoir” của dân Pháp. Học  ở Oxford dù
có cố gắng “lấy cần cù bù thông minh” hay “năng  động - sáng tạo” kiểu gì thì so
 Muốn là được với sinh viên Anh, Mỹ hay các nước Châu Âu khác, Kim cũng chỉ là người đến từ một nước có nền giáo dục không được phát triển như ông trưởng khoa đã lo ngại. Những  lúc  phải  nộp  bài  theo  nhóm,  bị  chúng  bạn  tìm  cách  né  tránh  không  cho cùng gia nhập, Kim vừa chán nản vừa phẫn nộ. Mấy  đứa sinh viên nước ngoài - mà đa phần là dân châu Mỹ La Tinh và châu Á - đành tụ lại thành một nhóm “hợp chủng quốc”. Và với vốn kiến thức  rất “ô hợp”,  thường nhóm không bao giờ  có được  điểm  cao  và  luôn  nhận  được  những  nhận  xét  rất  khắc  nghiệt  của  giáo  sư. Một lần Kim ao  ước: “Giá mà tụi sinh viên bản  địa chịu “gánh” dùm mỗi nhóm
một  vài  đứa  nước  ngoài  thì  điểm  số  mình  không  đến  nỗi  lẹt  đẹt  như  vậy!”.
Fernando đã nổi giận phản đối: “Với ý nghĩ  đó, tự em  đã xếp mình vào hạng làm
gánh  nặng  cho  người  khác.  Nếu  muốn  được  nhìn  nhận,  phải  có  lòng  tự  trọng
chứ!”. Lần  đó cảm thấy bị “xúc phạm ghê gớm” Kim thề sẽ không bao giờ nhìn
mặt Fernando nữa. Nhưng rồi cô chột dạ nhớ lại, ngày trước học  Đại học  ở Việt
Nam, cô vẫn có thái độ xem thường những bạn từ các tỉnh xa. Cô nghĩ họ làm sao
giỏi  tiếng  Anh  bằng  mình,  làm  sao  năng  động  được  trong  điều  kiện  nghèo  nàn
sách vở, làm sao tiếp cận nổi giới doanh nghiệp vì có quen biết ai. Những người
bạn  đó cũng không  được giới thành phố như Kim  đón nhận, họ tự chơi với nhau,
tự giúp nhau học rồi đi tìm việc để trang trải cho cuộc sống xa nhà. Chẳng bao giờ
cô  bận  tâm  khi  nghĩ  về  những  khó  khăn  của  họ.  Giờ  đây  sang  Oxford,  thấy
khoảng cách giữa “người ta” và “mình” xa vời vợi, như thể người Sài Gòn tự nhận
văn minh nhìn vào một cô nàng nào đó từ núi rừng mọi rợ bước ra đòi hội nhập.
Trong  khu  học  xá  gồm  nhiều  căn  nhà  cổ  theo  lối  kiến  trúc  Victoria  trên  phố
Woodstock, Kim ngụ trong một căn nhà có mười hai nhân khẩu. Sang Oxford cô
mới kinh ngạc nhận ra những hình  ảnh các ký túc xá to lớn, rộng rãi thường thấy
trên phim hoàn toàn chỉ thích hợp cho những trường Đại học ở Mỹ hay các thành
phố hiện đại khác ở Anh. Oxford trung thành với lối kiến trúc cổ và tự hào vì điều
đó.  Những  dãy  nhà  cổ  bé  tí  dễ  thương  với  những  căn  phòng  cũng  nhỏ  xíu  nằm trên những con phố xinh  đẹp như Woodstock, Walton, St John... chính là những
khu  học  xá  dành  cho  sinh  viên.  Trong  căn  nhà  chung  của  Kim,  ngoài  cô  còn  có Yutaka người Nhật và  Lệ Chi người Trung Quốc là sinh viên nữ  đến từ châu Á.
Thời gian  đầu có vẻ hút nhau vì cùng màu da vàng, ba người hay  ăn cơm chung
trong nhà bếp dưới tầng một, nhưng vài tuần sau Lệ Chi tự  động lảng tránh nhóm
các cô gái châu Á để hòa mình nhanh chóng vào thế giới châu Âu. 
Lệ  Chi  xinh xắn  nhất,  trẻ  nhất,  mới  là  sinh  viên  dự  bị  Đại  học  gọi  là  “A  level”, nhưng cực kỳ chịu chơi. Lắm hôm khi đi xuống bếp pha trà, Kim giật mình  đụng mặt cô bé từ phòng tụi Tây Ban Nha  đi ra lúc  đêm khuya. Kim đã thử khuyên Lệ
Chi nhưng cô bé khó chịu ra mặt nên Kim quy ết  định “mạnh ai nấy sống”. Nghe
đâu Lệ Chi là con một, cha là thương gia, mẹ trước kia là diễn viên, gia đình giàu
có nhưng không hạnh phúc. Yutaka trái ngược hoàn toàn với Lệ Chi, cô trạc tuổi
Kim,  tính  chững  chạc  và  không  nhan  sắc  nên  sống  khép  kín.  Yutaka  học  ngành khảo  cổ,  một  ngành  luôn  tìm  về  với  quá  khứ  nên  trông  cô  cũng  rất  lạ.  Bọn  Tây ư ngại tính  giữ kẽ của  Yutaka nên thường  cũng chỉ giao thiệp với Kim và  Lệ Chi. Xem chừng họ quí Kim hơn vì cô thân thiện nhưng biết dừng đúng lúc, không quá đà và “dễ dụ” như cô bé Trung Quốc. Nhiều lúc Kim lắc đầu cười cho những ngộ
nhận, trước kia cô cứ tưởng phụ nữ Nhật rất quậy còn con gái Trung Quốc  đoan
trang hơn. 
Sang đến cuối tháng mười, Kim vui mừng đón một  đồng hương mới từ Việt Nam
sang, chị là giáo viên một trường  Đại học, sang tu nghiệp theo chương trình hợp
tác với khoa Hàng Hải, sẽ chỉ  ở Oxford bốn tháng. Mấy ngày  đầu Thúy Hà phải
nhờ Kim dẫn đi giới thiệu trường  và  giúp  làm  một  số  giấy  tờ.  Kim  ngỡ  ngàng  nhận  ra  Thúy  Hà  hoàn  toàn  không hợp  với  mình.  Chị  nói  tiếng  Anh  chưa  rành  nhưng  hay  ra  vẻ  ta  đây,  thích  lên giọng  đàn  chị  dù  chỉ  hơn  Kim  một tuổi.  Kim  thường  nhìn  cái  cách  “dốt  mà  làm như  hay  chữ”  của  Thúy  Hà  mà  ngẫm  đến  lời  giáo  sư  trưởng  khoa:  “Ở  những trường  Đại học danh tiếng,  đôi khi người ta cũng buộc phải cấp bằng cho những nhân vật đặc biệt vì lý do ngoại giao hay chính trị”.  Chán  thực  lực  của  Thúy  Hà  đã  đành,  Kim  còn  bất  mãn  với  tính  nết  của  cô  bạn đồng hương. Có tí nhan sắc và dù đã có chồng với một con trai hai tuổi, Thúy Hà vẫn  lúng  liếng  đưa  tình  với  tất  thảy  bọn  con  trai  ở  đây,  dù  da  đen  hay  da  trắng, miễn vạm vỡ và đẹp trai là được. Cái vẻ lẳng lơ lộ liễu như Thị Mầu của Thúy Hà
làm Kim xấu hổ khi có ai đó hỏi “Bạn và Thúy Hà cùng là người Việt Nam hả?”. 
Kim thất vọng nghĩ mình tìm không ra một người bạn tâm giao ở đây, trong lớp bị
lạc lõng  đã  đành, về khu học xá cũng  chỉ là những mối quan hệ xã  giao. Có thể
bọn Tây không lạnh lùng, thậm chí còn sẵn sàng giúp đỡ, nhưng bản thân họ cũng
luôn  bận  rộn,  mà  Kim  thì  thấy  thật  tự  ti.  Vài  anh  chàng  người  Anh  đẹp  trai  nhưhoàng tử William, chắc xuất thân từ gia đình quyền thế, đôi khi làm Kim rụng tim
nhưng  cô  biết  họ  không  dành  cho  mình.  Cũng  có  chàng  xấu  trai  và  mặt  đầy  tàn nhang,  nhiều  lúc  Kim  muốn  kết  thân  nhưng  họ  lại  có  vẻ  mặc  cảm.  Những  anh chàng nước ngoài khác đến từ khắp nơi trên thế giới, đủ mọi màu da, sang hèn các
loại,  đẹp trai cỡ Brad Pitt không thiếu mà ngáo  ộp như một chàng Ivan nông dân
cũng  rất  nhiều.  Ai  cũng  “thủ”,  tự  tôn,  tự  ti  rộn  cả  lên.  Rốt  cuộc,  Kim  kết  luận: “Đừng mơ mộng gì nữa!”
Từ ngày bị Fernando nói thẳng đến mức tự ái không thèm nhìn mặt anh, Kim tìm
ra nguồn khác  để trút những than thở của mình.  Cô hay  viết email về kể  khổ và
nhận  được những lời  động viên của bạn bè bên nhà. Tuy nhiên họ thường làm cô
khó chịu. Có người vô tư hô khẩu hiệu: “Người Việt Nam mình ở đâu cũng giỏi!”.
Người  thì  tin  tưởng  cô  tuyệt  đối:  “Kim  phải  đứng  nhất  lớp  đó  nhé!”.  Kẻ  khác
thuộc hạng “ếch ngồi  đáy giếng”, chúc cô một câu xanh lè: “Học giỏi cho tụi Tây
lé mắt luôn!”. Kim bực mình nghĩ lỗi này do các phương tiện truyền thông chỉ đua
nhau ca ngợi những gương mặt Việt Nam thành công ở nước ngoài, rồi báo chí hè
nhau hoan hô các học sinh - sinh viên  đoạt giải thưởng và các huy chương quốc
tế.  Nhưng  những  trường  hợp  đặc  biệt  này  chiếm  bao  nhiêu  phần  trăm? Còn  bao nhiêu du học sinh học hành lẹt  đẹt, ngoại ngữ lõm bõm, cày ngày cày  đêm cũng
chỉ  mong  vượt  qua  được  ngưỡng  không  bị  điểm  liệt  sao  họ  không  đưa  tin?  Rồi chịu khó lên mạng  Internet mà xem,  ở khắp nơi trên thế giới còn bao nhiêu sinh
viên Việt Nam bế tắc đến nỗi phải vào bệnh viện tâm thần hay thương tâm nhất là
tự hủy mình, sao báo chí không lên tiếng? Kim căm ghét cái thói sĩ diện và hay ca
ngợi  của  dân  mình.  Hay  là  càng  tự  ti  nên  mới  càng  tự  tôn,  dạng  như  Thúy  Hà, giáo viên Đại học đó
?

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét